GIÁO LÝ ĐẠI TOÀN THIỆN – ATIYOGA VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN TRAO TRUYỀN
Một Con Đường Thênh Thang Tới Tự Do
“Những Hướng Dẫn Thực Hành Về Sự Hợp Nhất Của Đại Ấn Và Đại Toàn Thiện”
Karma Chagmé Với Bình Giảng Của Gyattrul Rinpoche
-------o0o-------
Kính lễ Đức Quán Thế Âm!
Đây là những hướng dẫn thực hành sâu sắc của Đức Quán Thế Âm, những nguyên tắc khai mở cặp mắt của trí huệ bổn nguyên bằng quan sát trực quan. Những hướng dẫn Đại Toàn Thiện, Tịnh Quang về Nhảy qua (Leap-over) có một kết nối sâu đậm với các hướng dẫn chính yếu của Đức Quán Thế Âm. Đức Vua Songtsen Gampo nói, "Pháp này của Đức Quán Thế Âm cũng là Đại Toàn Thiện," và Ngài thảo luận về điểm này trong một thời gian dài. Rộng Mở Trong Sáng khẳng định, "Những câu chuyện được kể vì lòng tin." Những điều này được giảng dạy phù hợp với các dòng truyền thừa có nguồn gốc từ Đức Phổ Hiền Như Lai vinh quang. Tantra Sự Hợp nhất Của Mặt Trời Và Mặt Trăng viết:
Những câu chuyện cần phải được giải thích. Nếu ý nghĩa của những câu chuyện không được giải thích, sẽ có những vấn đề hoài nghi trong những giáo lý này, mà trong đó chắc chắn có những bí ẩn vĩ đại.
Để gây dựng lòng tin, để nhận được những phước lành, và để mang lại sự xác quyết, những phẩm chất vĩ đại của dòng truyền thừa cần được giải thích.
Sơ thuỷ, khi không có sự khác biệt giữa Đức Phật và chúng sanh hữu tình, Đức Phổ Hiền Như Lai vinh quang là một vị Phật chưa từng trải nghiệm ảo tưởng. Cho đến lúc đó, chưa từng có vị Phật nào khác, vì vậy Ngài được gọi là Đức Phật Nguyên Thuỷ, và đây là vị sơ tổ của tất cả chư Phật. Bởi vì chúng sanh hữu tình không biết bản tánh của chính mình, họ lang thang trong sanh tử luân hồi. Đức Phổ Hiền Như Lai, sau đó, sanh khởi từ trạng thái trống không của Pháp thân trong những hiện thân như:
[1] Vajradhara - Đức Phật Kim Cương Trì
[2] Acintyaprabhasa - Bất Tư Nghị Quang
[3] Akopyabhasa
[4] Đấng khai mở tàng kinh Bhayatrana
[5] Đấng khai mở tàng kinh
[6] Đấng khai mở tàng kinh Vajradhara
[7]Đấng khai mở tàng kinh Kumaravirabhalin
[8]Đấng khai mở tàng kinh Rsi Krodhara
[9]Đấng khai mở tàng kinh Suvarnabhasottama
[10] Đấng khai mở tàng kinh Krpakridabuddhi
[11] Đấng khai mở tàng kinh tiền bối Kasyapa
[12] Đấng khai mở tàng kinh Samyaksamraja
[13] Đấng khai mở tàng kinh Sakyamunis
Mười hai đấng khai mở tàng kinh đã xuất hiện và truyền dạy 64.000 bộ Atiyoga tantra - Những Tantra Đại Toàn Thiện. Chúng được Đức Kim Cương Tát Đỏa truyền dạy cho Đức Garab Dorje xứ Orgyen, người đã thấu đạt ý nghĩa và viết chúng ra. Đức Garab Dorje giải thích những giáo lý này đến các vị Vidyadhara -Trì Minh Vương của Trung Hoa là Sri Sinha, và những vị Trì Minh Vương của Ấn Độ là Manjusrimitra và Manavaka, điều này đã dẫn đến sự tôn vinh ba truyền thống Đại Toàn Thiện, trong đó có truyền thống Manavaka.
- Khi lên tám tuổi, Đức Garab Dorje thọ nhận những giáo lý này trong một cuộc gặp gỡ trong tâm với Đức Kim Cương Tát Đỏa. Sau khi thọ nhận những giáo lý này, Ngài nói với đức vua rằng Ngài muốn biện luận với năm trăm vị học giả. Một cơn chấn động xảy ra sau đó vì độ tuổi của Ngài còn trẻ, nhưng cuối cùng, cuộc biện luận đã diễn ra, và Ngài đã đánh bại những đối thủ của mình. Các học giả đã ca ngợi thành tựu của Ngài, tuyên bố rằng: "Đức Phật đã trở lại." Đó là thời điểm mà Ngài được đặt tên là Garab Dorje. "Garab" có nghĩa là hạnh phúc tuyệt vời, đó là chính xác những gì mà vị thần đồng trẻ tuổi này mang đến cho tất cả mọi người.
Trì Minh Vương của Trung Hoa - Sri Sinha đã thọ nhận những giáo lý từ Đức Garab Dorje. Ngài đã được Đức Quán Thế Âm tiên tri ở Trung Hoa, Đức Quán Thế Âm đã nói về Ngài như một nhân vật vĩ đại, người thường xuyên đi bộ một cubit (khoảng 45cm) trên mặt đất. Rời khỏi Trung Hoa, Ngài đã đi đến Ấn Độ, và đã thọ nhận được những giáo lý Đại Toàn Thiện đầy đủ. Văn bản này nói rằng Ngài đã thọ nhận những giáo lý về Đại Toàn Thiện từ Đức Garab Dorje, nhưng trong những văn bản khác, người ta nói rằng Ngài thọ nhận chúng từ Đạo sư Manjusrimitra (Văn Thù Hữu). Vì vậy, chúng ta có thể kết luận rằng Ngài đã thọ nhận những giáo lý Đại Toàn Thiện từ cả hai bậc thầy này. Cuối cùng, Ngài trở về Trung Hoa và đưa 700.000 học trò đến giác ngộ. Một câu chuyện chi tiết hơn về cuộc đời Ngài được tìm thấy trong tiểu sử của Đức Liên Hoa Sanh và trong Truyền Thống Phật giáo Tây Tạng Nyingma do Đức Dudjom Rinpoche viết ra.
Đức Sri Sinha đã giải nghĩa [những giáo lý Đại Toàn Thiện] cho Đức Liên Hoa Sanh, học giả Gyalwa Yeshe Do, và Đức Vimalamitra. Đức Vimalamitra đi đến Tây Tạng và truyền những giáo lý này tới Đức Nyang Ting-nge-dzin Zangpo, Đức Vairocana, và vân vân. Các Giáo Huấn Cốt Tủy Của Vimalamitra và Mặt nạ CủaĐức Vairocana và vân vân bao gồm các văn bản Đại Toàn Thiện[1]. Orgyen ẩn dưới dạng kho tàng vô số tác phẩm nhưNhững Giáo Huấn Cốt Tủy Của Các Dakini, Các Giáo Huấn Cốt Tủy Về Sự Mở Rộng Rõ ràng, Các Giáo Huấn Cốt Tủy của Đức Kim Cang Tát Đỏa,
[1] Điều này muốn nói đến truyền thống Kama (bka'ma) của Đại Toàn Thiện
Cái Thấy Của Sự Mở Rộng Bao La[1], và Thiền Không Ngăn Ngại[1] Cho đến nay, đã xuất hiện hơn hai trăm năm mươi vị Khai mở tàng kinh, và Đại Toàn Thiện được bao gồm trong mỗi kho tàng[3].
Nói chung, người ta nói có 64.000 bộ Tantra Đại Toàn Thiện, nhưng hầu hết vẫn là kho báu ẩn. Một số đã được công bố trong các vùng đất của con người. Mười bảy Tantra Đại Toàn Thiện, mười bảy tantra đứa con trai nhỏ, Tantra Về Sự Mở Rộng Rõ Ràng Sáng Chói Của Các Dakini, mười bảy giáo lý tâm về người mẹ và người con, bảy kinh những phô diễn như huyễn thuật, và vân vân được gọi là các kinh, Tantra, và [những giáo lý về] tâm.
Nói chung, Đại Toàn Thiện vĩ đại này, trong đó có Máu Trong Tim Của Các Dakini[4] và Pháp Hướng Dẫn Thực Hành[5], là đỉnh cao của chín thừa. Bởi sự hiện diện của các đấng bảo hộ của các giáo lý, chẳng hạn như Mamo, Za, và Damchen, truyền dạy rộng rãi những giáo lý này là không thích hợp. Chúng chỉ được truyền dạy riêng đến từng học trò, nếu không, sẽ có những nguy hiểm lớn. Trong số những kho báu của Karma Lingpa, có các Pháp phổ biến, bao gồm Đức Quán Thế Âm An Bình Và Phẫn Nộ và KhởiHiện Tự Nhiên Của An Bình Và Phẫn Nộ Từ Tánh Giác Giác Ngộ. Trong sốSáu Tiến Trình Chuyển Hoá, có Sự Giải Thoát Tự Nhiên Của Tánh Giác Thức: Sự Nhận Diện Của Sáu Ngọn Đèn, và Giải Thoát Tự Nhiên Của Cái Thấy: Việc Nhận Diện Các Tiến Trình Chuyển Hóa Tự Nhiên Của Bản Thân Thực Tại[6].
Trong số ba mươi hai giới thiệu, cái thứ năm, Giới Thiệu Về Các Tia Sáng Của Mặt Trời Và Mặt Trăng, giới thiệu các cõi tịnh độ của ba hiện thân. Điều đó cần được truyền dạy, bởi vì đó là một Pháp vì lợi ích của chúng sanh hữu tình, việc truyền dạy pháp này như một Pháp phổ thông là thích hợp. Nhưng đối với một giáo lý như vậy, điều cần thiết đầu tiên là được thọ nhận một quán đảnh có liên quan đến Đại Toàn Thiện. Nếu chưa được thọ nhận, thì không thích hợp để thậm chí chỉ là lắng nghe những giáo lý, chứ chưa nói đến thực hành chúng mà không có một quán đảnh Mật Chú thừa như vậy. Như đã nói:
Làm thế nào một người lái đò không có mái chèo có thể đi qua sông? Một khi một người đã nhận được quán đảnh, toàn bộ Mật Chú [thừa] có thể được thành tựu.
- Ở Tây Tạng, một chiếc thuyền làm bằng da trâu yak thường được sử dụng để vượt qua một con sông hoặc hồ nước lớn. Thực hành Đại Toàn Thiện không có quán đảnh được cho là giống như băng qua hồ nước trong một chiếc thuyền không có mái chèo. Không chỉ người ta phải thọ nhận quán đảnh và giáo lý, mà người ta cũng phải giữ gìn những giới luật, hoặc cam kết mật.
[1] The View of the Vast Expanse
[2] The Unimpeded Contemplation
[3] Điều này muốn nói đến truyền thống Terma (gter ma) của Đại Toàn Thiện
[4] The Heart Blood of the Dakinis
[5] The Dharma of Practical Instruction
[6] Những giáo lý của Đức Liên Hoa sanh về sáu tiến trình chuyển hoá được Karma Lingpa khai mở, được dịch cùng với bình giảng của Gyatrul Rinpoche trong Natural Liberation: Padmasambhava's teaching on the Six Bardos, của Gyatrul Rinpoche, do B Alan Wallace dịch sang tiếng Anh.
Và:
Truyền dạy Tantra cho những người chưa thọ nhận các quán đảnh, và nhận lãnh một gánh nặng mà không quan tâm tới trọng lượng của nó đều là những nguyên nhân dẫn đến thất bại.
- Nếu bạn chất đồ lên một con trâu yak mà không chú ý đến trọng tải, cuối cùng, chú trâu sẽ quỵ xuống và chết. Tương tự, nếu bạn truyền dạy tantra cho những người chưa thọ giữ các quán đảnh, bạn đã gieo nhân cho sự tái sanh vào các cõi thấp trong vô lượng kiếp mà không có bất kỳ cơ hội nào để giải thoát. Ngày nay, những truyền thống Geluk, Sakya, và Kagyu có khuynh hướng không truyền dạy Đại Toàn Thiện. Lý do cho điều này là vì họ cho rằng không thích hợp để truyền giảng những giáo lý cao cấp trong khi không có một nền tảng phù hợp. Tuy nhiên, các Lạt ma của dòng Nyingma, căn chứ theo những lời tiên tri của Đức Liên Hoa Sanh, có một cách tiếp cận khác. Đức Liên Hoa Sanh đã tiên tri rằng khi Pháp suy yếu, chúng sanh sẽ là những cái bình phù hợp để tiếp nhận giáo lý Đại Toàn Thiện. Điều này ngụ ý rằng những giáo lý có thể được ban tặng theo cách càng ngày càng không bị gò bó. Có một lần, Thánh Đức Dudjom Rinpoche nhận xét rằng: Ngài nghĩ rằng giáo lý Đại Toàn Thiện được trao truyền khá cởi mở vào lúc này là điều khá phù hợp và đặc biệt là tới người phương Tây. Tương tự như vậy, sau khi được thọ giữ những giáo lý Đại Toàn Thiện rất sâu rộng, Yangthang Rinpoche đã được vị thầy tâm linh của chính của Ngài dặn rằng Ngài cần phải truyền dạy những giáo lý này một cách tương đối tự do và không có bất kỳ hạn chế nào. Hơn thế nữa, Ngài đã được dặn rằng nếu có những người đặc biệt - như là những người phương Tây - thỉnh cầu những giáo lý này, Ngài nên cố gắng truyền dạy cho họ vì họ là những cái bình phù hợp. Khi nghe điều này, nếu bạn phản ứng bằng suy nghĩ rằng bạn rất đặc biệt, bạn chỉ đang đặt nền tảng cho việc tái sanh vào một cõi thấp hơn.
Những ai đã được ban quán đảnh có liên quan tới Đại Toàn Thiện đều đã được cho phép. Thời điểm được nhắc đến trong Pháp Giới Trong Sáng[8]:
Tốt nhất là truyền dạy vào thời điểm thu phân và xuân phân.
Những thời điểm tốt nhất là vào mùa thu và mùa xuân, khi bầu trời là trong trẻo, nhưng nếu điều đó không khả thi, thì giới thiệu nên được trao truyền ngay vào lúc bình minh hoặc hoàng hôn.
Tại đây, những thực hành sơ bộ chuẩn bị cho những thực hành chính yếu sẽ được giải thích. Tantra Căn Bản Về Sự Thấu Suốt Của Âm Thanh khẳng định:
Hãy thực tập những thực hành sơ bộ. Hãy giải thích làm thế nào để phân biệt giữa sanh tử và niết bàn về mặt thân, ngữ, và tâm. Nếu sự phân biệt giữa sanh tử và niết bàn không được tạo lập, con sẽ không thể cắt đứt mối liên hệ giữa sanh tử và niết bàn về mặt thân, ngữ, và tâm. Vì vậy, hãy phân biệt giữa sanh tử và niết bàn.
[8] the Clear Expanse
- Do nhầm lẫn, chúng ta cảm thấy khó phân biệt giữa sanh tử và niết bàn. Do tham luyến và bám chấp, chúng ta nắm bắt các đối tượng ham muốn của mình như thể chúng là thanh tịnh. Do đó, chúng ta hưởng ứng sanh tử luân hồi như thể nó là một cõi tịnh độ. Tương tự như vậy, khi thực hành giai đoạn sanh khởi, bao gồm việc trưởng dưỡng lòng kiêu hãnh thiêng liêng, nhiều người ngay lập tức bám chấp vào bản sắc cá nhân của họ và bám nắm vào bản sắc có thật của các hiện tượng. Đây là nguồn gốc cho sự nhầm lẫn hơn nữa. Tại sao một số người đã được thọ giữ rất nhiều quán đảnh và khẩu truyền mà vẫn không tìm thấy nhiều lợi ích? Điều này hoàn toàn là do bởi vì họ không hiểu biết và nghiền ngẫm về Bốn Chuyển Tâm. Nếu bạn thiền quán về Bốn Chuyển Tâm, đức tin sẽ sanh khởi, sợ hãi sẽ sanh khởi, từ bi cũng sẽ sanh khởi, và do đó, ý chí kiên nhẫn và nhiệt tình cũng sẽ sanh khởi. Khi bạn xây dựng một nền tảng thông qua Bốn Chuyển Tâm, bạn đặt nền tảng cho năm cái đầu tiên của Sáu Ba La Mật. Nếu không có nền tảng này, Ba La Mật thứ sáu, trí huệ, không thể sanh khởi. Do đó, Bốn Chuyển Tâm là không thể thiếu.
-------o0o-------
Trích “Một Con Đường Thênh Thang Tới Tự Do”
“Những hướng dẫn thực hành về sự hợp nhất của Đại Ấn và Đại Toàn Thiện”
Tác giả: Karma Chagmé với bình giảng của Gyattrul Rinpoche.
B. Allan Wallace chuyển ngữ sang tiếng Anh.
Hoàng Lan dịch từ bản tiếng Anh sang tiếng Việt.
NXB. Thiện Tri Thức, 2020.
Photo: Tashi Mannox.
Bình luận